Mạch môn
Mạch môn - Ophiopogon
japonicus (L.f) Ker- Gawl.,
thuộc họ Hoàng tinh - Convallariaceae.
Mô tả: Cây thảo sống dai nhờ thân rễ ngắn. Lá mọc chụm ở đất, dẹp,
xốp làm 2 dãy. Hoa mọc thành chùm nằm trên một cánh hoa trần dài 10-20cm, Hoa
nhỏ màu lơ sáng, có cuống ngắn, xếp 1-3 cái một ở nách các lá bắc màu trắng.
Bao hoa 6 mảnh, rời hay dính ở gốc. Nhị 6, bao phấn mở dọc. Bầu 3 ô, một vòi
nhuỵ với 3 đầu nhuỵ. Quả mọng màu tím, chứa 1-2 hạt.
Hoa tháng 5-8, quả tháng 7-9.
Bộ phận dùng: Rễ (củ) - Ophiopogonis,
thường gọi là Mạch đông.
Nơi sống và thu hái: Cây của vùng Ðông Á, được trồng làm bờ các bồn hoa ở nơi
mát và có bóng râm. Trồng bằng gốc có rễ vào mùa xuân. Thu hái rễ vào mùa thu.
Ðào rễ củ già, rửa sạch đất cát, cắt bỏ rễ nhỏ ở hai đầu củ. Củ nhỏ để nguyên,
củ to có thể bổ đôi theo chiều dọc, rồi phơi hay sấy nhẹ đến khô. Khi dùng, ủ
mềm, bỏ lõi. Củ thường có hình thoi dài 1-4cm, màu vàng.
Thành phần hoá học: Củ chứa ophipogonin A, B, B', C, C', D, D'; ophiopogonone
A, B. Trong củ còn có chất nhầy, đường glucose.
Tính vị, tác dụng: Mạch môn có vị ngọt, hơi đắng, tính hơi lạnh; có tác dụng
dưỡng âm sinh tán, nhuận phế thanh hoả, trừ phiền nhiệt, chỉ khái huyết.
Cụ Việt Cúc viết về cây này như sau: Mạch môn.
Dây tóc tiên, Lan tròn, Hẹ riềng. Nhuận phế, chỉ khái, sinh tân chỉ khát, nhuận
trường thông tiện, thanh tâm trừ phiền.
Mạch môn ngọt lạt loại hàn lương Khu phong tiêu
ứ lại thông kinh
Huyết hành đau nhức tê rần khỏi Giải nọc độc
ban mọc khắp mình
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Mạch môn là cây thuốc thông dụng trong nhân dân làm thuốc
bổ phổi, trị ho, ho lao, về chiều nóng âm ỉ, sốt cao, tâm phiền khát nước, lợi
tiêu hoá, trị táo bón, lợi sữa cho đàn bà đẻ nuôi con. Còn dùng làm thuốc cầm
máu chữa thổ huyết, ho ra máu, chảy máu cam.
Ngày dùng 6-12g, dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay
phối hợp với Rẻ quạt, lá hẹ, hoa Ðu đủ đực, Húng chanh để trị ho.
Kiêng kị: Người tỳ vị hư yếu, ăn uống chậm
tiêu, ỉa chảy không dùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét